Kết quả thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 trên địa bàn tỉnh Bình Thuận

Gia đình là một vấn đề lớn và xây dựng gia đình là một chiến lược mà Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm, coi đó là mục tiêu quan trọng của công tác xây dựng đời sống văn hóa mới ở cơ sở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để làm tốt công tác xây dựng gia đình, trong nhiều năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề gia đình luôn được Nhà nước coi trọng, tác động bằng một hệ thống chính sách và điều chỉnh bằng nhiều văn bản pháp luật khá hoàn chỉnh và toàn diện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đề ra mục tiêu trên. Ngày 29/5/2012, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 629/QĐ-TTg về“Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030”.

Tại Bình Thuận, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, các huyện, thị xã, thành phố tổ chức quán triệt các nội dung của Quyết định số 629/QĐ-TTg ngày 29/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Nghị quyết số 81/NQ-CP ngày 04/12/2012 của Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Thông báo Kết luận số 26-TB/TW ngày 09/5/2011 của Ban Bí thư về việc sơ kết Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21/02/2005 của Ban Bí thư (khóa IX) về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nghị định số 02/2013/NĐ-CP ngày 03/01/2013 của Chính phủ quy định về công tác gia đình đến toàn thể cán bộ, đảng viên và quần chúng trong cơ quan, đơn vị; đồng thời  chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện theo chức năng nhiệm vụ và một số lĩnh vực theo thẩm quyền…

Từ khi triển khai thực hiện Quyết định số 629/QĐ-TTg, Nghị quyết số 81/NQ-CP, Nghị định số 02/2013/NĐ-CP của Chính phủ tại tỉnh Bình Thuận đã có tác động làm chuyển biến về nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, trước hết là trong công tác xây dựng và thực hiện các Kế hoạch; các văn bản triển khai thực hiện đã phát huy tính năng động, sáng tạo trong công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện; nâng cao hiệu quả lãnh đạo toàn diện của các cấp và huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc trong công tác triển khai thực hiện công tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình nên nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong công tác gia đình đã có sự chuyển biến rõ nét về tầm quan trọng của công tác xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; trong xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc gắn với việc xây dựng gia đình văn hóa góp phần xây dựng con người với đầy đủ các chuẩn mực, giá trị đạo đức, nhân cách, lối sống tốt đẹp. Bên cạnh đó, công tác gia đình ngày càng nhận được sự quan tâm và phối hợp của các sở, ngành, đoàn thể, chủ động triển khai thực hiện các nội dung của công tác gia đình gắn với hoạt động của ngành; đẩy mạnh phối hợp hoạt động tuyên truyền, tập huấn nâng cao kỹ năng xây dựng, bảo vệ hạnh phúc gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình, thực hiện bình đẳng giới… Qua đó, công tác gia đình ngày càng khẳng định vai trò, vị trí tầm quan trọng trong xây dựng đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội; góp phần hoàn thành tốt mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc, bền vững.

Những năm qua (2012 - 2020), việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam có sự phối hợp đồng bộ hiệu quả giữa các ngành, các cấp trong việc triển khai các kế hoạch, đề án về công tác gia đình và thực hiện Luật phòng, chống bạo lực gia đình đã được các cấp thẩm quyền phê duyệt; các mô hình phòng, chống bạo lực gia đình được triển khai và duy trì, nhân rộng đã hạn chế thấp nhất tình trạng bạo lực gia đình tại địa phương. Nhân dân đã nhận thức được bạo lực gia đình là vi phạm pháp luật; kiên quyết phòng, chống bạo lực gia đình và vận động bà con, Nhân dân trong tổ, xóm thực hiện. Các hoạt động truyền thông đạt chất lượng, hiệu quả đảm bảo sâu, rộng về nội dung, đa dạng về hình thức, đối tượng hướng ưu tiên cho nhóm nam giới tham gia xây dựng gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình. Ngoài ra, hằng năm tổ chức các chương trình trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các dịp kỷ niệm ngày Hạnh phúc Quốc tế 20/3, ngày Gia đình Việt Nam 28/6, Ngày thế giới xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái 25/11. Qua đó, nhận thức của các ngành, các cấp và toàn xã hội về vị trí, vai trò của gia đình và công tác gia đình ngày càng được nâng cao; những giá trị văn hoá gia đình Việt Nam, các phong tục, tập quán tốt đẹp được giữ gìn và phát huy; các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình đã được xóa bỏ; trách nhiệm đối với gia đình như giáo dục con cái, tham gia làm kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống ngày càng ổn định, góp phần vào sự phát triển chung của địa phương. So với thời điểm trước trước khi ban hành Quyết định số 629/QĐ-TTg, Nghị quyết số 81/NQ-CP, Nghị định số 02/2013/NĐ-CP thì nhận thức của cán bộ và Nhân dân ngày càng nâng lên rõ rệt và đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Điều kiện sống của các gia đình đã được cải thiện đáng kể, những thành tựu của công tác gia đình đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nhất là đóng góp vào công tác xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và chăm sóc người cao tuổi. Số vụ bạo lực gia đình đã giảm rõ rệt qua từng năm.

Thực hiện Quyết định số 629/QĐ-TTg ngày 29/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 1771/QĐ-UBND ngày 10/9/2012 về ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược xây dựng Gia đình Việt Nam của tỉnh Bình Thuận đến năm 2020, trong đó tập trung chỉ đạo các sở, ngành, đoàn thể và UBND  huyện, thị xã, thành phố xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhằm đạt các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. Đến nay việc thực hiện đạt kết quả như sau1:

Mục tiêu 1: Nâng cao nhận thức về vai trò; vị trí, trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.

- Chỉ tiêu 1: Đến năm 2020 đạt 95% hộ gia đình được phổ biến, tuyên truyền và cam kết thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình. Kết quả: Các sở, ban, ngành, địa phương trong tỉnh đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến qua đó các thành viên trong gia đình đã thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình, đạt 96% hộ gia đình thực hiện.

- Chỉ tiêu 2: Đến năm 2020 đạt 95%  nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị kiến thức cơ bản về gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình. Kết quả: Nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn được các ngành và địa phương trang bị kiến thức cơ bản về gia đình, PCBLGĐ, đạt 97,5%.

- Chỉ tiêu 3: Hằng năm, trung bình giảm từ 10 - 15 hộ gia đình có bạo lực trong gia đình so với năm trước. Kết quả: Năm 2015: Từ năm 2015 đến 2019 số vụ bạo lực gia đình giảm nhiều qua các năm. Năm 2015 là 535 vụ đến năm 2019 chỉ có 160 vụ, đạt chỉ tiêu đề ra.

- Chỉ tiêu 4: Hằng năm, trung bình giảm từ 10 - 15% hộ gia đình có người mắc tệ nạn xã hội so với năm trước. Kết quả: Mặc dù các Sở ban, ngành, địa phương tăng cường thường xuyên công tác quản lý, tuyên truyền vận động toàn dân phòng chống tệ nạn xã hội, tuy nhiên trong tình hình hiện nay cùng với sự phát triển của đời sống, văn hóa, kinh tế, xã hội thì tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng với nhiều nguyên nhân, do vậy đối với chỉ tiêu này không đạt theo mục tiêu của Chiến lược.

- Chỉ tiêu 5: Hàng năm, trung bình giảm 10 - 15% hộ gia đình có người kết hôn dưới tuổi pháp luật quy đinh. Số hộ gia đình có người kết hôn dưới tuổi pháp luật quy định. Kết quả: Đạt chỉ tiêu đề ra.

Mục tiêu 2: Kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển; thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ.

- Chỉ tiêu 1: Đến năm 2020 đạt 85% trở lên hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa. Kết quả: Năm 2019, đạt 92,6% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, đạt chỉ tiêu đề ra.

- Chỉ tiêu 2: Đến năm 2020 đạt 95% hộ gia đình dành thời gian chăm sóc, dạy bảo con, cháu, tạo điều kiện cho con, cháu phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, không phân biệt con, cháu là trai hay gái. Kết quả: Năm 2019 đạt 95%, đạt chỉ tiêu đề ra.

- Chỉ tiêu 3: Đến năm 2020 đạt 95% hộ gia đình thực hiện chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo ông, bà, chăm sóc cha, mẹ, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ. Kết quả: Năm 2019 đạt 96,5%, vượt chỉ tiêu đề ra.

- Chỉ tiêu 4: Đến năm 2020 đạt 98% hộ gia đình có người trong độ tuổi sinh đẻ được tuyên truyền và thực hiện đúng chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, không phá thai vì giới tính của thai nhi. Kết quả: Năm 2019 đạt 98%, đạt chỉ tiêu đề ra.

Mục tiêu 3: Nâng cao năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế; tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi, đặc biệt đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo theo quy định.

- Chỉ tiêu 1: Đến năm 2020 đạt 95% hộ gia đình được cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật về phúc lợi xã hội dành cho các gia đình chính sách, gia đình nghèo. Kết quả: Năm 2019 đạt 98,5%, vượt chỉ tiêu đề ra.

- Chỉ tiêu 2: Đến năm 2020 đạt 95% hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo được cung cấp kiến thức, kỹ năng để phát triển kinh tế gia đình, ứng phó với thiên tai, khủng hoảng kinh tế. Kết quả: Năm 2019 đạt 95%, đạt chỉ tiêu đề ra.

- Chỉ tiêu 3: Hàng năm, tăng 10% hộ gia đình, thành viên trong gia đình được thụ hưởng các dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục và dịch vụ hỗ trợ gia đình, hỗ trợ thành viên gia đình. Kết quả: Đạt chỉ tiêu đề ra.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì việc triển khai thực hiện Quyết định số 629/QĐ-TTg ngày 29/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 còn có những hạn chế nhất định2:

Một là, việc cụ thể hóa Chương trình hành động thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam của tỉnh Bình Thuận đến năm 2020 ở một vài huyện còn chậm so với tiến độ. Hàng năm, UBND các cấp chưa quan tâm đánh giá kết quả và đề ra các giải pháp cụ thể cũng như cân đối nguồn lực để thực hiện Chương trình hành động thực hiện Chiến lược gia đình ở địa phương. Hoạt động phối hợp liên ngành trong công tác gia đình, Phòng chống bạo lực gia đình chưa thường xuyên, đồng bộ; một số ngành còn chưa quan tâm nhiều đến lĩnh vực gia đình, chủ yếu thực hiện công việc theo yêu cầu của ngành chuyên môn. 

Hai là, hoạt động tuyên truyền các văn bản pháp luật về gia đình chưa thường xuyên, liên tục chủ yếu tập trung vào các dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3, ngày Gia đình Việt Nam 28/6, ngày Quốc tế xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái 25/11 nhất là ở vùng xa, vùng đồng bào dân tộc còn gặp nhiều khó khăn; một số cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, chưa nhận thức hết tầm quan trọng của giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình, một bộ phận lớp trẻ có dấu hiệu xuống cấp về đạo đức, lối sống.

Ba là, nhận thức của Nhân dân tuy có chuyển biến tiến bộ, nhưng vẫn còn không ít gia đình chưa thể hiện hết vai trò, trách nhiệm trong việc xây dựng gia đình “No ấm, tiến bộ, hạnh phúc”. Còn một số hộ gia đình thuộc diện nghèo, đời sống khó khăn, văn hóa thấp, không nghề nghiệp và ít có cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội; vẫn còn hộ gia đình nghèo, gia đình chính sách ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số sống trong nhà tạm bợ, dột nát. Còn nhiều người tàn tật, người cao tuổi, trẻ em cần sự quan tâm, chăm sóc của gia đình và cộng đồng.

Bốn là, việc triển khai công tác xây dựng gia đình chủ yếu thực hiện lồng ghép nên hiệu quả chưa cao. Hoạt động của các mô hình còn nhiều hạn chế, nội dung sinh hoạt chưa phong phú, sinh động. Đội ngũ cán bộ công tác gia đình cơ sở còn hạn chế về năng lực chuyên môn và nghiệp vụ nên chất lượng tham mưu và hoạt động triển khai Kế hoạch công tác gia đình; phòng, chống bạo lực gia đình đôi lúc chưa cao.  

Năm là, công tác thu thập, xử lý thông tin các chỉ tiêu về công tác gia đình ở các ngành và địa phương thực hiện chưa đều khắp, số liệu thu thập chưa đảm bảo theo yêu cầu và độ tin cậy chưa cao.

Sáu là, hiệu quả hoạt động của một số mô hình về gia đình, Câu lạc bộ “Gia đình phát triển bền vững”, “Nhóm phòng, chống bạo lực gia đình” chưa hiệu quả và thu hút nhiều người tham gia.

Bảy là, kinh phí thực hiện công tác gia đình ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, hầu như không có, chỉ cấp theo từng hoạt động tuyên truyền nhân các ngày kỷ niệm của gia đình.

Trên cơ sở tổng kết những kết quả đạt được và những hạn chế trong việc thực hiện Quyết định số 629/QĐ-TTg ngày 29/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, giai đoạn 2012 – 2020; tỉnh Bình Thuận tiếp tục đề ra nội dung, nhiệm vụ, giải pháp mới về công tác gia đình trong giai đoạn 2020 – 20303:     

Một là, cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 trên địa bàn toàn tỉnh. Thực hiện tốt các phối hợp liên ngành thực hiện công tác gia đình.

Hai là, đầu tư đủ kinh phí, trang thiết bị, cơ sở vật chất, cán bộ làm công tác gia đình ở các cấp và những điều kiện đảm bảo thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia, các đề án, dự án đã được phê duyệt về công tác gia đình. Đưa nội dung công tác gia đình vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của địa phương, của ngành. Đảm bảo nguồn kinh phí hoạt động công tác gia đình từ ngân sách, huy động sự đóng góp của toàn xã hội cho công tác gia đình. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác gia đình các cấp vừa đảm bảo chuyên môn, nghiệp vụ vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và cộng đồng về tầm quan trọng, vị trí và vai trò của gia đình và công tác xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của thành phố trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật về gia đình và có liên quan, kiến thức, kỹ năng tổ chức đời sống gia đình, ứng phó với khủng hoảng kinh tế, thiên tai, bệnh dịch và bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới; đề cao các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam phù hợp với đời sống công nghiệp, hiện đại.

Bốn là, các đoàn thể chính trị - xã hội cần tiếp tục phát động các cuộc vận động xây dựng gia đình phù hợp với nhu cầu của hội viên, đoàn viên và yêu cầu của phát triển gia đình. Tạo môi trường và động lực thúc đẩy cá nhân, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội tham gia xây dựng, phát triển gia đình, góp phần vào công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội.

Năm là, nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình, đảm bảo việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phụng dưỡng người cao tuổi, thực hiện bình đẳng giới trong đời sống gia đình. Chú trọng đến các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hộ nghèo; tạo điều kiện cho hộ gia đình nghèo, khó khăn tiếp cận đầy đủ các chính sách an sinh xã hội và ứng phó với những biến đổi, thiên tai.

Sáu là, phát triển các dịch vụ hỗ trợ cho gia đình về chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ trẻ em, chăm sóc người cao tuổi, tư vấn pháp luật – tâm lý; các dịch vụ cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở dịch vụ tư vấn cho người gây bạo lực gia đình. Thực hiện có hiệu quả hơn nữa công tác phòng, chống bạo lực gia đình và phòng ngừa giảm thiểu bạo lực trên cơ sở giới trên địa bàn.

Bảy là, lồng ghép công tác gia đình vào Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, thông qua việc bình xét các danh hiệu gia đình văn hóa, thôn, khu phố văn hóa.

Tám là, công tác tuyên truyền vận động, thay đổi nhận thức và hành vi phải được triển khai mạnh mẽ ở cấp cơ sở, nhất là địa bàn khu dân cư; khu lưu trú công nhân và các nhóm đối tượng có nguy cơ.

Chín là, xây dựng, hoàn thiện và phát triển các mô hình gia đình hiệu quả tại cộng đồng, khu dân cư nhằm phát huy sức mạnh cộng đồng cùng chung tay xây dựng gia đình hạnh phúc và bền vững.

Mười là, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về gia đình.

Nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhận thức đúng về vai trò, tầm quan trọng của gia đình và công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới. Xác định gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững đất nước… trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, đơn vị trong thời gian tới./.


(1), (2), (3) Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận: Báo cáo số 234/BC-UBND ngày 07/10/2020 về việc tổng kết Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và các văn bản, đề án về công tác gia đình giai đoạn 2010-2020.


Các tin khác