Tin mới nhất

Hai cuộc Cách mạng vĩ đại và bài học sinh động trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Cách mạng Tháng Mười (11/7/1917) và Cách mạng Tháng Tám (02/9/1945) cách nhau gần 30 năm, là những sự kiện lịch sử có những đặc điểm riêng biệt, độc đáo, song, cả hai cuộc cách mạng đều có một động lực chung, đó là xuất phát từ sự nhận thức sâu sắc về sức mạnh vĩ đại của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và những người bị áp bức, bóc lột được thức tỉnh, tập hợp và đoàn kết dưới sự lãnh đạo của một Đảng kiểu mới - Đảng Mác-xít - Lênin-nít. 

Sức mạnh đó hoàn toàn có thể làm nên một cuộc cách mạng long trời, lở đất, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột và tự mình xây dựng một xã hội mới - xã hội XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định tầm vóc lịch sử vĩ đại đó của Cách mạng Tháng Mười và ảnh hưởng sâu sắc, trực tiếp của những giá trị đó đối với Cách mạng Việt Nam. Người thể hiện suy nghĩ đó với tình cảm chân thành, rất Việt Nam: “Việt Nam có câu tục ngữ: Uống nước nhớ nguồn. Càng nhớ lại những ngày tủi nhục mất nước, nhớ lại mỗi bước đường đấu tranh cách mạng đầy hy sinh, gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang thì giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam càng thấm thía công ơn to lớn của Lênin vĩ đại và Cách mạng Tháng Mười”. Sức mạnh vĩ đại của quần chúng trong Cách mạng Tháng Mười được nhân lên nhiều lần bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn và sáng tạo của một Đảng cách mạng theo tư tưởng của Lênin. Đó chính là nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, đó cũng là bài học sâu sắc cho các nước làm cách mạng vô sản nói chung và Cách mạng Tháng Tám nói riêng. Một đảng của giai cấp công nhân kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, vững vàng trước mọi thử thách, có tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể - là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc ảnh hưởng to lớn và bài học lịch sử đó của Cách mạng Tháng Mười đối với cách mạng Việt Nam, trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”. Như vậy, rõ ràng là, hai bài học lớn nhất - cả về lý luận và thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười, bài học về sức mạnh của quần chúng cách mạng và bài học về Đảng cách mạng chân chính - đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng triệt để và sáng tạo trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng, muốn cách mạng thành công thì phải có dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất”. Sau 100 năm từ Cách mạng Tháng Mười đến nay với biết bao thăng trầm, biến động to lớn, phức tạp, cả thành tựu vĩ đại và thất bại đau đớn, đã minh chứng cho sự tổng kết thực tiễn sâu sắc, sáng suốt của Lênin về những quy luật đối với cách mạng, đó là: “Cách mạng vô sản giành được chính quyền mới chỉ là bắt đầu, giành chính quyền đã khó, giữ được chính quyền càng khó hơn nhiều. Nếu cách mạng không xây dựng thành công một nền kinh tế mới với năng suất lao động cao, có chất lượng và hiệu quả thể hiện bản chất ưu việt của CNXH thì những thành quả, những thắng lợi mà cách mạng đã giành được khó có thể giữ vững và khả năng phục hồi chế độ cũ rất có thể xảy ra…”.

Đảng ta đã nhận thức rõ bài học đó và, từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam; trên cơ sở kiên định con đường đã chọn, biết tiếp thu, vận dụng những thành tựu của nhân loại vào xây dựng xã hội mới. Cho đến nay, đường lối đổi mới của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn, được cả các nước theo con đường TBCN và con đường XHCN tán thành, ủng hộ nhưng với động cơ và nhận thức khác nhau. Chẳng hạn như: vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, các nước theo con đường TBCN thì cho rằng: đây là quá trình tư nhân hoá; còn chúng ta cho rằng, đây là quá trình phát triển kinh tế tư bản nhà nước, một bộ phận cấu thành nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, mà học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đề cập. Vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng có ý kiến coi đây là đi theo CNTB. Nhưng, thực chất đó là sự vận dụng những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong giai đoạn phát triển của CNTB hiện đại vào xây dựng xã hội XHCN, chứ không phải là xa rời học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong xây dựng xã hội mới nói chung, thực hiện kinh tế thị trường nói riêng, chúng ta luôn quan tâm thực hiện các biện pháp định hướng XHCN để thể hiện rõ tính ưu việt của xã hội XHCN so với xã hội TBCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH...

Để tiếp tục kiên định con đường XHCN và tiếp thu những thành tựu của thế giới vào xây dựng xã hội mới, chúng ta cần giải quyết nhiều vấn đề; trong đó, hết sức chú ý đến một số vấn đề sau:

Một là, giữ vững sự lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam, chống mọi âm mưu thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; vì sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thành công của cách mạng Việt Nam trong mọi giai đoạn.

Hai là, đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới. Trong quá trình đó, đặc biệt đề phòng nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; vì nó đe dọa trực tiếp đến sự trường tồn của chế độ XHCN ở nước ta.

Ba là, kiên trì đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…

Bốn là, tăng cường hợp tác với các nước tư bản phát triển để kế thừa và phát triển khoa học - công nghệ hiện đại và học tập trình độ quản lý của họ; vì đây là những quốc gia hàng đầu về tiềm lực kinh tế, khoa học - công nghệ (có công nghệ cao, công nghệ gốc, công nghệ nguồn...), có vai trò chi phối thế giới. Thông qua quan hệ hợp tác có hiệu quả với họ, chúng ta sẽ có điều kiện thuận lợi để thực hiện chiến lược “đi tắt, đón đầu” trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, loại trừ nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với một số nước trong khu vực và trên thế giới.

Năm là, xây dựng quan hệ chiến lược với các nước theo định hướng XHCN; vì đây là mối quan hệ truyền thống giữa các nước có chung mục tiêu xây dựng CNXH và đều có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây sẽ là nhân tố quan trọng góp phần loại trừ nguy cơ chệch định hướng XHCN.

Sáu là, đẩy mạnh quan hệ truyền thống với các nước trước đây đã từng là đồng minh chiến lược, giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống xâm lược; đồng thời, phát triển quan hệ với tất cả các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

Với việc xác định các mối quan hệ như trên, chúng ta sẽ tranh thủ được sự hợp tác quốc tế; vừa khai thác được thế mạnh, vừa bảo đảm lợi ích chính đáng của mỗi nước tạo sự chế ước lẫn nhau giữa các nước, hướng tới xây dựng mối quan hệ chiến lược với cả các nước lớn, các nước phát triển mà vẫn giữ được độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường với phương châm: chấp nhận sự tuỳ thuộc lẫn nhau, nhưng không chấp nhận sự lệ thuộc vào bất kỳ nước nào.

Kiên định con đường XHCN trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sử dụng những thành tựu tiến bộ của nhân loại đạt được trong thời kỳ CNTB hiện đại để xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn là hoàn toàn có cơ sở lý luận và thực tiễn khách quan, khoa học./.


Các tin khác

Kết quả điểm

Tài liệu tuyên truyền

Hướng dẫn tra cứu thư viện số