Phát triển kinh tế biển ở tỉnh Bình Thuận

Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của người dân Bình Thuận. Bước vào thế kỷ 21 - “Thế kỷ của biển và đại dương”, giống như nhiều tỉnh khác của Việt Nam, Bình Thuận đang hướng mạnh về biển để khai thác tiềm lực kinh tế của mình. Hiện nay, kinh tế biển của tỉnh Bình Thuận đã có bước chuyển biến đáng kể. Cơ cấu ngành nghề đang có sự thay đổi lớn. Ngoài các ngành nghề truyền thống, đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với công nghệ - kỹ thuật hiện đại như khai thác dầu khí, đánh bắt xa bờ, vận tải biển, du lịch biển - đảo.

Trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII đã khẳng định: “khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng, lợi thế, chủ động hội nhập, phát triển mạnh kinh tế biển, du lịch, năng lượng, thúc đẩy kinh tế tỉnh nhà phát triển nhanh và bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Như vậy, phát triển mạnh kinh tế biển là một trong ba ngành kinh tế động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh nhà.

Bình Thuận là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, thuộc vùng kinh tế Đông Nam Bộ và nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Bình Thuận có bờ biển dài 192 km, vùng lãnh hải, ngư trường rộng 52.000 km2, và vùng biển Bình Thuận tiếp giáp liên thông với các ngư trường lớn của cả nước như ngư trường Đông Nam Bộ; khu vực Trường Sa - Nhà giàn DK1; vùng giữa biển Đông nên tỉnh Bình Thuận có điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế thủy sản, vận tải khu vực ven biển.

Bên cạnh đó, Bình Thuận có nhiều tiềm năng phát triển du lịch - thể thao biển nhờ vào dải bờ biển dài; có nhiều nơi thích hợp cho việc hình thành các khu du lịch sinh thái biển, bảo tồn sinh thái biển như Cù Lao Câu và tổ chức các loại hình thể thao dưới nước như: lướt ván diều, khinh khí cầu, đua mô tô nước… Huyện đảo Phú Quý với những điểm nổi bật là vịnh Triều Dương, bãi nhỏ Gành Hang... là nơi được quy hoạch thành khu du lịch cộng đồng, du lịch - thể thao, biển đảo.

Trong 5 năm qua (giai đoạn 2010 -2015), kinh tế biển tỉnh Bình Thuận được phát huy ngày càng toàn diện cả về khai thác, chế biến, nuôi trồng, dịch vụ hậu cần nghề cá gắn với phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ du lịch, đi đôi với coi trọng phát triển công nghiệp nhằm khai thác tối đa lợi thế kinh tế biển.

Thành tựu của ngành kinh tế thủy sản: ngành kinh tế thủy sản tăng bình quân 7,2%/năm. Sản lượng hải sản khai thác tăng qua từng năm, nuôi trồng thủy sản cả nước mặn, ngọt và lợ phát triển ổn định, đặc biệt chất lượng tôm giống được giữ vững, khẳng định được lợi thế. Năm 2015, sản lượng hải sản khai thác đạt 198.000 tấn, nuôi thủy sản đạt 14.000 tấn; sản xuất, tiêu thụ tôm giống 22 tỷ post, tăng 13,9 tỷ post so với 2010. Các nghiệp đoàn nghề cá và tổ đoàn kết khai thác thủy sản thành lập ngày càng nhiều hơn, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đã thành lập thí điểm 5 nghiệp đoàn nghề ở các địa phương và 226 tổ đoàn kết, 4.002 thuyền, 25.385 lao động (trong đó có 100% tàu thuyền khai thác hải sản xa bờ tham gia). Cơ cấu thuyền nghề chuyển mạnh theo hướng tăng tàu thuyền có công suất lớn, đánh bắt xa bờ gắn với dịch vụ hậu cần trên biển. Toàn tỉnh hiện có 7.477 chiếc tàu thuyền, với tổng công suất 842 ngàn CV, bình quân 112,66 CV/chiếc (năm 2010:74,6 CV/chiếc), trong đó, tàu có công suất từ 90 CV trở lên có 2.305 chiếc (năm 2010: 1.705 chiếc).[1]

Thành tựu của ngành du lịch biển: tiềm năng du lịch biển được phát huy ngày càng tốt hơn. Công tác xúc tiến du lịch đặc biệt là du lịch biển được thường xuyên quan tâm, đã tổ chức một số sự kiện văn hóa, thể theo quốc tế góp phần tuyên truyền, quảng bá, thu hút du khách như: giải lướt ván buồm cúp thế giới PWA Mũi Né - Việt Nam, Festival thuyền buồm quốc tế Mũi Né - Bình Thuận - Việt Nam  năm 2011; Hoa hậu Trái đất, Hoa hậu Đại dương,…[2]

Mặc dù kinh tế biển của tỉnh Bình Thuận đã đạt được những kết quả bước đầu không nhỏ, nhưng nhìn chung quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé và đang ở trình độ thấp chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế biển của tỉnh. Tỷ trọng đóng góp của kinh tế biển vào RGDP còn thấp. Công nghiệp chế biến thủy sản còn yếu. Kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu như ít cảng cá, quy mô đầu tư cũng như các dịch vụ kèm theo cảng kém. Các chương trình hỗ trợ ngư dân cải tạo tàu thuyền, nâng cao công suất để vươn xa vẫn còn hạn chế. Chất lượng nguồn lao động biển còn thấp. Một bộ phận dân cư vùng biển còn khó khăn, nhất là vùng bãi ngang…

Để sớm đạt được kết quả trong Quy hoạch phát triển kinh tế biển tỉnh Bình Thuận đến năm 2020 của Quyết định số 1613/QĐ-UBND, tỉnh Bình Thuận cần thực hiện một số biện pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh phát triển toàn diện, bền vững kinh tế biển gắn với tái cơ cấu kinh tế của tỉnh để kinh tế biển trở thành ngành kinh tế động lực quan trọng thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà.

Thứ hai, huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư hoàn chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển đảo như đầu tư các công trình kè chống xâm thực, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, đường giao thông ven biển, cảng cá, cảng tổng hợp Vĩnh Tân, cảng giao thông tuyến Phan Thiết - Phú Quý, sân bay Phan Thiết, các công trình hạ tầng thiết yếu trên đảo Phú Quý…

Thứ ba, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân đầu tư phát triển tàu thuyền công suất lớn khai thác xa bờ, trang bị kỹ thuật hiện đại.

Thứ tư, khai thác, phát huy các tiềm năng, lợi thế về biển, đảo để phát triển mạnh du lịch - thể thao biển; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch vùng biển.

Thứ năm, đẩy nhanh tiến độ đầu tư hạ tầng các khu, cụm công nghiệp ven biển và đẩy mạnh phát triển công nghệ chế biến thủy sản xuất khẩu, giữ vững thương hiệu nước mắm Phan Thiết.

Tỉnh Bình Thuận được xem là địa phương có thế mạnh về kinh tế biển. Kinh tế biển của tỉnh Bình Thuận đã và đang có sự chuyển biến mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu và ngày càng khẳng định được vai trò, vị thế của mình trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh nhà./.

 


[1] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII, Tr.32 & 33.

 

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII, Tr.37 & 38.

 


Các tin khác