Vai trò của việc thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở

Ngày 20 tháng 6 năm 2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật hòa giải ở cơ sở. Ngày 05 tháng 7 năm 2013, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh công bố Luật hòa giải ở cơ sở. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.

Tuy nhiên Luật hòa giải ở cơ sở chỉ phát huy tác dụng, đạt được hiệu quả khi nó được tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội. Vai trò của Luật hòa giải ở cơ sở  được thể hiện thông qua vai trò của việc thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở. Vai trò của việc thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở thể hiện qua các nội dung sau:

 Thứ nhất, thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở góp phần giải quyết những việc  vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân; phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.      

 Trong cuộc sống thường ngày, do sự khác biệt về lợi ích kinh tế, quan niệm, nhận thức lối sống, tình cảm…nên việc nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, giữa các hộ gia đình và giữa các cá nhân với nhau trong cộng đồng dân cư là điều tất yếu không thể tránh khỏi. Những mâu thuẫn, tranh chấp đó có thể giải quyết bằng nhiều hình thức như: thông qua việc giải quyết của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: tòa án nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước, thông qua hòa giải ở cơ sở…

Hơn nữa, trong cuộc sống hàng ngày có những hành vi vi phạm pháp luật nhưng hành vi vi phạm đó chưa đến mức phải xử lý bằng hình sự hoặc xử lý hành chính, trong lĩnh vực dân sự, có những mâu thuẫn, tranh chấp mang tính chất nội bộ như va quệt xe cộ, tranh chấp lối đi, đường thoát nước… Những mâu thuẫn, tranh chấp này không phải lúc nào cũng có thể giải quyết ổn thỏa bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà nhiều khi chỉ được giải quyết ổn thỏa bằng hòa giải ở cơ sở . Điều đáng lưu ý là những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư nếu không kịp thời giải quyết thấu đáo có thể dẫn đến những hành vi tội phạm. Phần lớn các hành vi phạm tội, đặc biệt các tội giết người, cố ý gây thương tích…đều phát sinh từ những mâu thuẫn, tranh chấp, sự bất đồng chính kiến, ghét nhau ở lời ăn, tiếng nói…mà đã không kịp thời hòa giải.

Vì vậy, thực hiện tốt Luật hòa giải ở cơ sở không những góp phần giải quyết kịp thời các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư mà còn có tác dụng triệt tiêu mầm mống dẫn đến tội phạm, góp phần phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.

 Thứ hai, thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở góp phần phát huy, tăng cường truyền thống đoàn kết, đạo đức dân tộc, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa ở cơ sở.

Suốt mấy nghìn năm lịch sử dựng nước  và giữ nước, trải qua bao cuộc chiến tranh khốc liệt chống thù trong, giặc ngoài…dân tộc ta, nhân dân ta đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái. Truyền thống đó đã được Hồ Chí Minh khẳng định. Theo Người, từ trước tới nay, cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều hiểu và sống theo luân lý:“ Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Truyền thống tốt đẹp đó đã khắc sâu và trở thành tiềm thức trong lòng nhiều người dân Việt Nam.

Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của một gia đình, họ tộc hay cộng đồng, lúc này lúc khác đã nảy sinh những va chạm, xích mích khó tránh khỏi. Với truyền thống đoàn kết tốt đẹp từ bao đời nay, trong thực tế nhân dân ta đã tự giúp nhau dàn xếp, khuyên bảo nhau “bớt giận làm lành”, “chín bỏ làm mười” để hòa giải, trở lại hòa thuận, tương thân, tương ái, “tối lửa tắt đèn có nhau” như Hồ Chí Minh đã dạy: “Đoàn kết, đoàn kết, đoàn kết, thành công thành công đại thành công”.

Hơn thế nữa, trong lòng mỗi người Việt Nam đều chứa đựng truyền thống yêu giống, thương nòi, “đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Theo Hồ Chí Minh: “con người dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình” và khẳng định truyền thống “nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa”. Hòa giải ở cơ sở sẽ giúp các bên đạt được thỏa thuận, tự giải quyết với nhau tận gốc rễ các mâu thuẫn, tranh chấp, có tác dụng khôi phục, giữ gìn tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng dân cư.

Trong quản lý xã hội hiện nay, để đạt được hiệu quả tối ưu, bên cạnh việc đề cao pháp luật cần kết hợp với giáo dục đạo đức như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: “Tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.

Thực hiện Luật hoà giải ở cơ sở phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng dân cư làm cho con người sống với nhau có tình, có nghĩa, ứng xử với nhau trong quan hệ hàng ngày phù hợp pháp luật, chuẩn mực đạo đức xã hội. Mọi người có ý thức giữ gìn đoàn kết, tình làng, nghĩa xóm, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, từ đó hình thành nếp sống văn minh, xây dựng gia đình văn hóa góp phần quan trọng vào việc tổ chức quản lý nông thôn nước ta hiện nay.

Thứ ba, thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở góp phần hạn chế đơn thư khiếu kiện trong nhân dân, giảm bớt các vụ việc của cơ quan nhà nước, tiết kiệm thời gian, công sức, tiền của của nhân dân và cơ quan nhà nước.

Các hành vi vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân có thể giải quyết bằng nhiều hình thức: đơn phương tránh xung đột, hay từ bỏ các quyền, lợi ích của mình trong các mâu thuẫn, tranh chấp; thông qua việc giải quyết của các cơ quan trọng tài; thông qua hòa giải; đặc biệt là thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Tòa án nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước.

Trong các hình thức giải quyết các tranh chấp trên, hình thức giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hình thức đặc biệt quan trọng, nó bảo đảm các quyền, lợi ích của các bên tranh chấp. Nếu như không có hoạt động xét xử của các cơ quan này, pháp luật không được bảo đảm thi hành trong đời sống xã hội và tính nghiêm minh của pháp luật cũng không được bảo đảm.

Vì lẽ đó, nên những mâu thuẫn, tranh chấp…của nhân dân nếu được giải quyết bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ dẫn đến việc tổn hao công sức, tiền của…của cả nhân dân và của cả cơ quan nhà nước như nhân dân ta thường nói: “vô phúc đáo tụng đình”. Nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu kiện, tranh chấp của nhân dân, trong đó có nguyên nhân chưa thực hiện tốt hình thức giải quyết bằng hòa giải đặc biệt là hình thức hòa giải ở cơ sở.

Như vậy, nếu như thực hiện tốt Luật hòa giải ở cơ sở không những góp phần giải quyết kịp thời các vi phạm và tranh chấp mà thông qua đó còn tuyên truyền giáo dục pháp luật, giải thích lợi hại của việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải so với giải quyết bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Kinh nghiệm của một số nước, hòa giải viên phải giải thích cho các bên tranh chấp thấy được lợi hại của việc giải quyết bằng hòa giải với giải quyết bởi Tòa án về số tiền mà đương sự phải bỏ ra. Từ đó, làm giảm bớt số vụ việc phải giải quyết của cơ quan Tòa án và cơ quan hành chính nhà nước, tiết kiệm được tiền của, công sức của nhân dân và của cơ quan nhà nước.

Thứ tư, thông qua thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở, góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật, từng bước xây dựng thói quen, ý thức pháp luật của công dân.

Thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở và phổ biến, giáo dục pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau. Để việc thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở đạt hiệu quả phải có cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật hữu hiệu đưa Luật hòa giải vào cuộc sống. Trong đó việc phổ biến, giáo dục pháp luật về hòa giải ở cơ sở là khâu không thể thiếu. Ngược lại, tổ chức thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở là một trong những hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật hữu hiệu.

Bằng sự định hướng giáo dục thông qua hoạt động thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở mà pháp luật đi sâu vào nhận thức, tình cảm của từng cá nhân, từng gia đình, từng nhóm cá nhân một cách sâu sắc, có sức thuyết phục hơn theo phương châm “trăm nghe không bằng một thấy”. Thông qua hoạt động thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, hòa giải viên tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với các bên tranh chấp, giúp họ hiểu biết về chính sách pháp luật của Nhà nước. Từ đó, hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật của nhân dân./.


Các tin khác