Giáo dục nâng cao nhận thức về quyền con người ở Việt Nam hiện nay

Khái niệm Nhân quyền, hay quyền con người (Human rights) là quyền của tất cả mọi người;

Khái niệm Nhân quyền, hay quyền con người (Human rights) là quyền của tất cả mọi người; đó là những nhu cầu xuất phát từ nhân phẩm vốn có của con người, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ[1]. Điều này có thể hiểu, quyền con người là những quyền tự nhiên của con người, mà không bị phụ thuộc vào phong tục tập quán, truyền thống văn hoá, tôn giáo, dân tộc, thành phần giai cấp, tổ chức hay nhà nước nào. Đó là các quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật. Như vậy, từ khi sinh ra làm người, bất kể họ là ai, như thế nào về tuổi tác, khiếm khuyết, sắc tộc, tôn giáo, ngành nghề,… thì đều có đầy đủ các quyền tự nhiên mà tạo hóa ban cho họ. Dù vậy, đây cũng chưa phải là tất cả các quyền của con người có được. Trong một thể chế chính trị - xã hội nhất định, ngoài việc được thừa nhận các quyền bất khả xâm phạm nêu trên, người dân còn có những quyền khác nữa của một công dân. Những quyền tự nhiên bất khả xâm phạm đó được ghi nhận, bảo vệ và được thể hiện trong các văn bản như: Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyềnCông ước Quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Hiến pháp và pháp luật của mỗi nước.

Như vậy, quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi nhưng không hoàn toàn đồng nhất.

Quyền con người là một khái niệm có nội hàm rộng lớn, dành cho mọi đối tượng người là thành viên của cộng đồng nhân loại. Về tính chất, quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thểc ộng đồng nhân loại. Nhưng quyền con người còn gắn với đặc thù về văn hoá, lịch sử, trình độ phát triển, thể chế chính trị của mỗi quốc gia mà quyền con người được công nhận và bảo vệ ở mức độ nào, nghĩa là nó gắn với quyền công dân của con người.

Về bản chất, các quyền công dân chính là những quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình. Với ý nghĩa là một khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định quốc tịch, quyền công dân là tập hợp những quyền tự nhiên được pháp luật của một nước ghi nhận và bảo đảm, nhưng chỉ cho những người có quốc tịch của nước đó.

Hiểu biết về quyền con người và quyền công dân chính là điều kiện đầu tiên, không thể thiếu để có thể bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong thực tiễn một cách hiệu quả. Tuy nhiên, có một thực trạng đáng buồn đó là “có hàng triệu người sinh ra rồi chết đi mà không hề biết rằng họ là chủ thể của các quyền con người…”[2]. Và thực trạng đó chỉ có thể khắc phục thông qua giáo dục nâng cao nhận thức của mọi người về quyền con người.

Giáo dục nhân quyền là vấn đề thu hút sự quan tâm thường xuyên của cộng đồng quốc tế trong khoảng vài thập kỷ gần đây. Nhiều tổ chức quốc tế, trong đó đặc biệt là Liên hợpquốc và UNESCO đã có những chương trình hành động lớn và rộng khắp trên thế giới về vấn đề này. Trong phạm vi quốc gia, giáo dục nhân quyền cũng đã trở thành một phần trong chương trình giáo dục của nhiều nước.

Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước; khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội; thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đi đến thắng lợi.

Là thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực thực hiện các cam kết của mình; đồng thời chủ động hợp tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong nhiều hoạt động trên lĩnh vực quyền con người và đã đạt được rất nhiều những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước cũng như hiện thực hoá quyền con người ở Việt Nam. Việt Nam là một trong những quốc gia tham gia một cách tích cực hầu hết các công ước quốc tế, thực hiện nghiêm túc, cầu thị và cởi mở các cam kết quốc tế về quyền con người.

 Đến nay, hệ thống pháp luật được xây dựng khá chặt chẽ và hoàn chỉnh để đảm bảo toàn diện việc thực hiện các quyền con người, quan tâm đến tất cả các quyền về kinh tế, văn hoá, xã hội, dân sự, chính trị; đồng thời với các nhóm đối tượng trong xã hội như phụ nữ, trẻ em, người già, người tàn tật, người đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo… đều bình đẳng được đảm bảo về quyền lợi và nghĩa vụ phù hợp với đặc thù của Việt Nam. Có thể nói, Việt Nam là một trong những điểm sáng của thế giới trong những nỗ lực nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn sự thụ hưởng các quyền và tự do của con người được cộng đồng quốc tế ghi nhận và có những đánh giá tích cực.

Do vậy, những năm qua, việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về quyền con người luôn được Đảng và nhà nước quan tâm, đẩy mạnh. Bên cạnh việc giảng dạy môn học quyền con người trong trường học, nhiều cơ quan nhà nước, nhiều tổ chức thuộc hệ thống chính trị và cơ quan khoa học đã phối hợp với các tổ chức quốc tế và quốc gia mở các khoá tập huấn về quyền con người cho các đối tượng khác nhau. Nhận thức về quyền con người, do đó, đã ngày càng được nâng cao.

Trên phương diện nhận thức, cùng với việc coi trọng vị thế và vai trò của con người, vấn đề quyền con người cũng được coi trọng. Hiến pháp năm 1992 (Điều 50) lần đầu tiên đề cập đến thuật ngữ quyền con người và khẳng định: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Hiến Pháp 2013 một lần nữa khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14.1). Điều đó cho thấy chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức cũng như những nỗ lực của Việt Nam trong việc thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến hiện thực hoá các quyền con người.

Tuy nhiên, có một thực tế đó là nhận thức về quyền con người của mọi đối tượng, thành phần giai cấp trong xã hội còn nhiều hạn chế, các kênh thông tin, định hướng, giáo dục về quyền con người chưa được quan tâm đúng mức và chưa thực sự hoạt động có hiệu quả.

Thực tế cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, trong đó có bộ phận cán bộ, công chức dẫn đến có những nơi, có những lúc còn hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân. Sự hạn chế như vậy có nguyên nhân từ công tác tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền chưa thật sự hiệu quả, đi vào chiều sâu ngay cả ở những người đại diện nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người.

Các kênh thông tin đại chúng trong thời gian qua đã có rất nhiều các hoạt động tích cực, đa dạng trong việc tuyên truyền, phổ biến các thông tin, kiến thức về quyền con người. Tuy nhiên, các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta hiện nay đề cập đến vấn đề nhân quyền một cách khá thận trọng, chủ yếu dưới dạng phê phán sự xuyên tạc, lợi dụng nhân quyền để chống phá ta của các thế lực phản động, thù địch. Nhân quyền được coi là một vấn đề nhạy cảm. Do đó, nó ít được đề cập một cách trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những bài viết về quyền con người cũng mang tính phản biện xã hội hơn là hướng đến tuyên truyền, giáo dục về quyền con người.

Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ vai trò của giáo dục nhân quyền trong tiến trình phát triển của đất nước, từ đó định hướng và triển khai các hoạt động giáo dục nhân quyền rộng khắp trong cả nước. Giáo dục nhân quyền được thực hiện ở tất cả các cấp học từ tiểu học lên đến đại học thông qua các môn học đạo đức ở cấp tiểu học, hay giáo dục công dân ở cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông được lồng ghép vào chương trình học. Qua đó, ít nhiều giúp các em có những hiểu biết và nhận thức nhất định về quyền và nghĩa vụ công dân như những quy định pháp luật về quyền con người. Riêng ở chương trình đại học, giáo dục nhân quyền chưa được đưa vào trong chương trình giảng dạy của tất cả các trường đại học, mà chủ yếu được nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học đào tạo các chuyên ngành về các lĩnh vực xã hội như: luật, khoa học chính trị, quan hệ quốc tế…

Như vậy, lượng kiến thức về quyền con người trong chương trình giáo dục ở Việt Nam là khá lớn so với mặt bằng chung trên thế giới. Mặc dù vậy, hoạt động giáo dục nhân quyền ở Việt Nam vẫn còn có nhiều tồn tại, nhiều vấn đề đặt ra. Đó là sự hiểu biết và phương pháp giảng dạy nhân quyền của giáo viên đã thực sự đáp ứng yêu cầu, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu những vấn đề về nhân quyền hay nội dung cần được truyền đạt như thế nào là phù hợp; định hướng thông tin tuyên truyền về quyền con người cũng như việc thực hiện quyền con người cụ thể ở Việt nam trên các phương tiện thông tin đại chúng như thế nào là phù hợp, nhưng cũng cần phải đa dạng, sinh động hơn để toàn xã hội nhận có nhận thức đúng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của chính bản thân mình, qua đó nâng cao cảnh giác với các luận điệu xuyên tạc, vu khống chống phá của các thế lực thù địch… là những vấn đề cần quan tâm khi hướng đến mục tiêu nâng cao nhận thức của toàn xã hội về quyền con người.

Có thể thấy, giáo dục nâng cao nhận thức, hiểu biết về quyền con người ở Việt Nam là yêu cầu bức thiết trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam là một trong những quốc gia đã và đang tham gia một cách tích cực và mạnh mẽ vào các cam kết cũng như công ước quốc tế về quyền con người./.

 


[1] Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Trung cấp LLCT- HC, Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2014, tr. 258.

[2] Wolfgang Benedek (Chủ biên), Tìm hiểu về quyền con người, NXB Tư pháp, 2008, tr.29


Các tin khác