Với khát vọng tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước khi mới 21 tuổi. Người đã bôn ba khắp bốn biển, năm châu, vừa lao động vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để rồi tìm thấy chân lý của thời đại, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho cách mạng Việt Nam: Đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua cột mốc biên giới số 108 trên tuyến biên giới Việt - Trung thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng để trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam – thời kỳ xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Trước đó, từ năm 1940, tình hình trong nước bắt đầu những ngày cách mạng sục sôi, tình thế cách mạng phát triển một cách thuận lợi. Các cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra như: Khởi nghĩa Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kỳ, Binh biến Đô Lương nhưng đều thất bại. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa này đã để lại nhiều bài học quý báu về tổ chức và chỉ đạo đấu tranh vũ trang. Ở trên thế giới trong thời gian này cũng là lúc diễn ra Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Chính phủ Pháp ở chính quốc tham chiến chưa lâu nhưng đã đầu hàng và làm tay sai cho phát xít Đức. Ở Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp mở cửa rước quân Nhật vào, buộc nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Sau một thời gian tìm hiểu nắm bắt tình hình chung, nhận thấy thời cơ thuận lợi đang đến gần, đòi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách kịp thời, chỉ đạo sát sao, nhạy bén và tập trung hơn nữa để thúc đẩy phong trào quần chúng, tập hợp cho được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng dân tộc khi thời cơ đến, với danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản, tháng 5/1941, Bác Hồ đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị đã làm việc từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 tại một cái lán bên dòng Khuổi Nậm (Pác Bó). Trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình, đặc biệt là tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước, Hội nghị đề cập nhiều vấn đề quan trọng, như: cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là cuộc cách mạng “giải phóng dân tộc”; kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là “phát xít Pháp - Nhật và các lực lượng phản cách mạng tay sai cho chúng”; nguyện vọng của nhân dân Đông Dương lúc này là “đánh đuổi Pháp - Nhật, làm cho xứ Đông Dương độc lập”… Hội nghị nhất trí cần giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc nhằm động viên toàn dân cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu lớn lao ấy. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[1].
Hội nghị cũng đã đề ra nhiều biện pháp về tư tưởng, chính trị và tổ chức để động viên mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta để tập trung tất cả sức mạnh cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trên cơ sở những kinh nghiệm thực tiễn đã được tổng kết qua việc tổ chức thí điểm các hội quần chúng như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… ở Cao Bằng, theo đề nghị của Bác Hồ, Hội nghị đã quyết định thành lập thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh). Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời với Tuyên ngôn và Chương trình nêu rõ những chính sách cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục, xã hội, ngoại giao và các chính sách cụ thể đối với các tầng lớp nhân dân nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước:
1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập;
2. Làm cho dân Việt Nam được hoàn toàn sung sướng, tự do[2].
Để động viên các giới đồng bào thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng, tham gia xây dựng và không ngừng mở rộng Mặt trận Việt Minh, ngày 06/6/1941, Bác Hồ viết thư Kính cáo đồng bào, gửi đến các tầng lớp nhân dân trong cả nước. Sau khi nêu lên nỗi khổ cực của dân ta “một cổ hai tròng”, đã “làm trâu ngựa cho Tây” lại phải “làm nô lệ cho Nhật" và khơi dậy truyền thống oanh liệt của các bậc anh hùng cứu quốc tiền bối, Người kêu gọi hơn hai mươi triệu người dân Việt Nam: “Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng... Chúng ta hãy tiến lên! Toàn thể đồng bào tiến lên. Đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật”[3].
Cũng trong thời gian này, một vấn đề quan trọng được Bác Hồ đặc biệt quan tâm là mở các lớp huấn luyện để đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Tiếp sau các lớp huấn luyện trên đường về nước, Người đã cho mở những lớp huấn luyện ngắn ngày cho cán bộ địa phương, có lớp chỉ ngày đến một tuần lễ, mà nội dung tập trung vào ba điểm: Tình hình thế giới và trong nước, Chủ trương chính sách mới của Đảng và Chương trình, Điều lệ Việt Minh và phương pháp công tác. Với tầm nhìn chiến lược xa rộng, Người đã yêu cầu chọn một số thanh niên ưu tú ở Cao Bằng gửi đi học lớp vô tuyến điện ở Liễu Châu (Trung Quốc), mở lớp huấn luyện quân sự, tổ chức một đội vũ trang thoát ly đầu tiên ở Cao Bằng... nhằm chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho công cuộc khởi nghĩa vũ trang sau này. Không chỉ trực tiếp tham gia giảng bài tại các lớp học, Người còn biên soạn một số tài liệu quan trọng phục vụ cho công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ, như: Cách đánh du kích; Lịch sử nước ta; Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô tóm tắt… Đây là những tài liệu đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam
Như vậy là, sau gần 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, vượt qua biết bao khó khăn, trở ngại tưởng chừng không thể vượt qua nổi, mong ước được trở về nước cùng đồng bào đấu tranh giải phóng dân tộc của Bác Hồ đã trở thành hiện thực. Dưới sự chủ trì của Người, Hội nghị Trung ương lần thứ tám với sự chuyển hướng chiến lược, sách lược cách mạng trong việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ trong điều kiện cụ thể của Việt Nam chính là sự hoàn chỉnh nội dung các nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và 7 trước đó. Sự chuyển hướng chiến lược một cách kịp thời, đầy sáng tạo này đã đáp ứng được khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc, phù hợp với bối cảnh cụ thể của cách mạng nước ta, thực chất là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của cách mạng Việt Nam đã được nêu ra trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt từ đầu năm 1930, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ngày càng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, đưa cách mạng đến thắng lợi “nhanh chóng đến mức làm cho người ta sững sờ” trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và sau đó là chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, là Đại thắng mùa Xuân năm 1975 thống nhất non sông, Bắc - Nam sum họp một nhà.
Với ý nghĩa lớn lao đó, sự kiện Bác Hồ về nước mùa Xuân năm 1941 là một mùa Xuân đặc biệt trong cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân của Người, vì đó là mùa xuân đầu tiên Bác Hồ trở về Tổ quốc, kết thúc chặng đường dài sau gần ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, hoạt động ở nước ngoài, để rồi từ đó trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và cùng Đảng ta đem lại những mùa xuân cho dân tộc.
Kỷ niệm 80 năm ngày Bác Hồ về nước (28/01/1941 - 28/01/2021) đúng vào dịp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang đón chào sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của dân tộc đó là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng sẽ càng tiếp thêm sức mạnh để đất nước ta đi tới những thắng lợi mới của công cuộc Đổi mới. Một mùa Xuân mới đang đến gần, toàn thể dân tộc Việt Nam nguyện phấn đấu thực hiện thành công mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như Bác Hồ hằng mong ước./.
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.113.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.470.
[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.230.