Tin mới nhất

Vấn đề "An tử" ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Quyền con người là một trong những giá trị cao nhất mà các quốc gia đều đề cao và bảo vệ. Mỗi quốc gia khi xây dựng pháp luật đều dựa trên các điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội và các giá trị truyền thống văn hóa của quốc gia để bảo đảm các quyền con người, quyền công dân một cách tốt nhất và đầy đủ nhất. An tử hay còn gọi là quyền được chết của công dân nhằm để thể hiện mong muốn được chấm dứt cuộc sống bằng những cách thức ít đau đớn nhất có thể, khi bệnh nhân không còn khả năng cứu chữa. Do đó, “an tử” ở nước ta trong thời gian gần đây nhận được sự quan tâm của nhiều người. Tuy nhiên, xoay quanh vấn đề này vẫn còn nhiều quan điểm trái chiều và chưa được ghi nhận trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào. 

Từ khóa: An tử, quyền, pháp luật, Việt Nam.

An tử (Quyền được chết) ban đầu xuất hiện gắn liền với khái niệm “cái chết êm dịu”. Từ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là euthanatos. Trong đó, “eu” là tốt và “Thanatos” là chết. An tử thường xuất hiện khi  người bệnh không muốn tiếp tục kéo dài bệnh tật và do đó bày tỏ mong muốn được “giải thoát” thông qua chế độ y tế đặc thù. Một số ý kiến cho rằng việc kết thúc nhanh sự sống là một cách để làm giảm sự đau khổ của người bệnh và người thân của họ. Một số ý kiến khác cho rằng việc bảo vệ mạng sống và làm giảm đau khổ là nhiệm vụ chính của ngành y tế, khuyến khích quyền được chết là điều trái với y đức. Nhiều người phản đối vì cho rằng con người không có quyền can thiệp vào sự sống chết của người khác (trừ tội phạm đã bị toà tuyên án tử hình). Mọi sự can thiệp hay giúp đỡ để người bệnh được chết đều phải bị coi là giết người.
Trên thế giới chưa có văn bản pháp luật nào cũng như chưa có quốc gia nào công nhận “quyền được chết” mà chỉ có một số văn bản pháp luật ở một vài quốc gia cho phép sử dụng an tử trong một vài trường hợp nhất định. Ngay cả trong lời thề Hippocrates (1) cũng có đoạn: “Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả khi họ yêu cầu và cũng không tự mình gợi ý cho họ”. 
Ở nước ta, dấu ấn đầu tiên của quyền an tử trong hoạt động lập pháp là tại kỳ họp thứ 6 và 7 Quốc hội Khóa XI (2004, 2005), tại Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách năm 2005, vấn đề quyền an tử được đưa vào dự thảo sửa đổi Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, đa số đại biểu cho rằng đây là vấn đề nhạy cảm, không phù hợp với đạo lý người Á Đông hiện nay và không đồng ý với hợp pháp hóa quyền an tử. 
Đến năm 2013, khi cơ quan lập pháp Việt Nam tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1992, vấn đề quyền an tử một lần nữa được chú ý tới. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới, còn nhiều tranh luận khác nhau không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước trên thế giới nên vấn đề vấn còn được tiếp tục nghiên cứu, chưa thể hiện trong Hiến pháp. 
Có nhiều ý kiến cho rằng: Nếu việc thông qua quyền được chết, có thể sẽ để lại một số hậu quả như: 
Về pháp luật: Người thân của bệnh nhân sẽ thông đồng với bác sĩ để sửa bệnh án, hoặc cưỡng ép ông bà, cha mẹ bị bệnh ký vào giấy an tử nhằm trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc để tranh giành tài sản. Hay một số bác sĩ thiếu y đức sẽ dùng quyền được chết để “loại bỏ” những bệnh nhân từng có thù oán với họ.
Về y tế: Người bệnh có thể hồi phục ngoài dự đoán của y học (bệnh nhân đột ngột tỉnh dậy sau nhiều năm hôn mê) hoặc bệnh lí đó sẽ được tìm ra cách chữa trong tương lai gần…; nếu áp dụng quyền được chết thì đó sẽ là vô tình giết người. Cũng có thể bác sĩ chẩn đoán sai tình trạng bệnh (bởi Y khoa là một ngành khoa học không chính xác tuyệt đối. Chẩn đoán thì không thể chính xác 100%, luôn có một tỉ lệ sai sót tùy thuộc vào trình độ chuyên môn của bác sĩ, cơ sở vật chất của bệnh viện.)
Về đạo đức và xã hội: Việc ký vào giấy an tử đối với người bệnh sẽ để lại tâm lý day dứt, ân hận đối với những người thân còn sống. Nếu những người thân của họ bất đồng về việc an tử người bệnh (người đồng ý, người không) sẽ dễ dẫn tới sự rạn nứt tình cảm, thậm chí trả thù lẫn nhau. Hơn nữa, việc cho phép an tử có thể làm cho nhiều người vội vã đi tìm “an tử” để giải quyết bế tắc cá nhân mà không cần có nghị lực vươn lên. 
Vì một số hậu quả tác động nêu trên, tại Việt Nam, quyền được chết vẫn chưa được thừa nhận cụ thể. Hiến pháp không có quy định đề cập đến quyền được chết, mà chỉ nêu rõ về quyền được sống.
Tại Điều 19 Hiến pháp 2013 như sau:
“Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Theo đó, tính mạng con người được pháp luật bảo hộ và không ai có quyền tước đoạt tính mạng người khác, trừ trường hợp tội phạm chịu hình phạt tử hình theo quy định pháp luật. 
Như vậy, quyền an tử chưa được công nhận tại Việt Nam, mọi hành vi an tử đều bị coi là hành vi xâm phạm tính mạng người khác trái pháp luật và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì nó đi ngược lại mong muốn tự nhiên của con người, đi ngược lại mục tiêu số một của ngành y tế, đó là kéo dài sự sống, chữa bệnh cứu người. Đối với bác sĩ - người hành nghề khám chữa bệnh có trách nhiệm khám chữa bệnh, cứu người mà không có quyền tước đoạt tính mạng bệnh nhân. 
Căn cứ theo Điều 44 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023 quy định như sau:
“Nghĩa vụ đối với người bệnh:
1. Kịp thời sơ cứu, cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh, trừ trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 40 của Luật này.
2. Tôn trọng các quyền của người bệnh, có thái độ ân cần, hòa nhã với người bệnh.
3. Tư vấn, cung cấp thông tin theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật này.
4. Đối xử bình đẳng với người bệnh, không để lợi ích cá nhân hay sự phân biệt đối xử ảnh hưởng đến quyết định chuyên môn của mình.
5. Chỉ được yêu cầu người bệnh chi trả các chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật”.
Theo quy định trên, bác sĩ chỉ có nghĩa vụ khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh, tại nghĩa vụ đối với người bệnh cũng không có quy định về an tử cho bệnh nhân. Theo đó, nếu bác sĩ an tử cho bệnh nhân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tôi tội giết người được quy định tại Điều 123, điểm k, khoản 1, khoản 4 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) như sau:
Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Còn đối với trường hợp người nhà bệnh nhân hay bất kỳ ai thực hiện hành vi an tử dù là theo mong muốn, di nguyện của bệnh nhân thì đây vẫn bị xem là hành vi xâm phạm tính mạng người khác trái pháp luật. Do đó, trong đại dịch Covid 19 có thông tin bài viết về một bác sĩ đã rút ống thở của bố mẹ mình để nhường cho một sản phụ. Khi được đăng tải đã tạo nên một làn sóng về sự thương cảm cùng với đó là việc đề cao lòng dũng cảm, hy sinh của bác sĩ này, tuy nhiên ngay sau đó, bài viết đã được cơ quan điều tra xác nhận là không có thật (2).
Như vậy, nước ta hiện nay chưa công nhận quyền được chết của bất kỳ ai. Do đó, bệnh nhân dù đang trong giai đoạn không thể cứu chữa, hay bị bệnh tật dày vò đau khổ thì cũng không có bất kỳ ai được quyền hỗ trợ chết cho bệnh nhân. Vì vậy, bất kỳ ai thực hiện hành vi trợ tử cho người khác, tùy theo tính chất, mức độ và hậu quả mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.
Còn đối với hành vi xúi giục hoặc giúp người khác tự kết thúc sự sống có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát. 
Căn cứ theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) như sau:
Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ;
b) Tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
2. Phạm tội làm 02 người trở lên tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Luật pháp cho con người quyền được sinh ra và quyền mưu cầu hạnh phúc nhưng lại chưa cho họ được quyền kết thúc cuộc đời của chính mình. Do đó, việc chấp nhận quyền được chết vẫn đang là một vấn đề gây tranh cãi bởi tính hai mặt của quyền này, hơn nữa đây còn là vấn đề khá mới và nhạy cảm, không phù hợp với văn hóa và đạo lý sống của người Việt bởi lằn ranh phân biệt giữa tội lỗi và tính nhân đạo trên mạng sống con người đang còn quá mong manh trong những trường hợp đã cận kề với cái chết. Vì vậy, cho đến thời điểm hiện tại Việt Nam ta chưa ghi nhận quyền này ở bất kì hình thức nào và bất kì văn bản quy phạm pháp luật nào. Mọi hành vi giúp người khác an tử đều là hành vi vi phạm pháp luật và phải chịu sự nghiêm trị của pháp luật./.


(1) Hippocrates là ông tổ của y học và là thầy thuốc vĩ đại nhất thời Hy Lạp cổ đại. Ông sinh năm 460 TCN, mất vào khoảng năm 380-370 TCN. Theo ông việc thực hành y khoa phải dựa trên sự quan sát và nghiên cứu cơ thể người, bệnh tật xuất hiện do các nguyên nhân có thể tìm hiểu chứ không phải do sức mạnh siêu nhiên hay sự trừng phạt của thần thánh đối với tội lỗi hay sự báng bổ của con người. Ông không chỉ chữa bệnh giỏi mà còn là người coi trọng đạo đức nghề nghiệp. Ông được cho là tác giả lời tuyên thệ mà các thầy thuốc phải đọc. Việc đọc Lời thề Hippocrates là cách các bác sĩ tuyên thệ giữ y đức, làm tròn chức trách trước khi bước vào con đường chữa bệnh cứu người.

(2) Hương Thảo-Lan Anh, https://tuoitre.vn/vu-nhuong-may-tho-cuu-san-phu-bac-si-khoa-co-that-khong-20210808112815844.htm, truy cập ngày 28/2/2025.


Các tin khác

Kết quả điểm

Tài liệu tuyên truyền

Hướng dẫn tra cứu thư viện số