Tin mới nhất

Dân chủ và các hình thức dân chủ

Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất. Dưới chế độ ta, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hai hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. 

Dân chủ là phương thức quan hệ giữa người với người trên tất cả các lĩnh vực xã hội, giữa các thiết chế xã hội, là một hình thức tổ chức quan hệ xã hội thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của mỗi thành viên, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực.

Bản chất của dân chủ là quyền tự do cá nhân, là sự tôn trọng cá nhân con người. Nói một cách khác, đặc trưng quan trọng nhất, bản chất của dân chủ là quyền tự do cá nhân, là tôn trọng cá nhân con người, “công nhận phẩm giá vốn có của mọi thành viên gia đình nhân loại, công nhận các quyền bình đẳng và bất khả phân của họ là cơ sở của tự do, công bằng và hoà bình trên toàn thế giới...”[1]. Như vậy, dân chủ đòi hỏi quyền bình đẳng của tất cả các công dân, không phụ thuộc vào màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, thành phần xuất thân, tài sản, đẳng cấp, niềm tin, v.v... Bình đẳng ở đây là bình đẳng về cơ hội, bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng trong việc chọn người đại diện. Nói đến dân chủ trước hết chúng ta hiểu rằng đấy là quyền của con người trong việc tham gia quản lí nhà nước thông qua các cơ chế khác nhau, quyền làm một thành viên bình đẳng trong một tập thể nào đó, có điều kiện thể hiện quan điểm của mình và được lắng nghe.

Dân chủ được thực hiện dưới hai hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

Dân chủ trực tiếp là hình thức mà qua đó nhân dân bằng hành vi của mình trực tiếp thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội.

Dân chủ trực tiếp ra đời lần đầu tiên ở nhà nước Cộng hòa dân chủ chủ nô Athen (Hy Lạp, 508-322 trước Công nguyên). Ở đó, nhân dân tự quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, chế độ dân chủ trực tiếp ở Athens là hình thức dân chủ chưa hoàn chỉnh, bởi quyền bỏ phiếu chỉ được trao cho các công dân nam, còn phụ nữ, người nước ngoài và nô lệ không được hưởng quyền này. Mô hình dân chủ trực tiếp kiểu này tiếp tục được vận dụng và phát triển trong nhà nước La Mã cổ đại (509-27 trước Công nguyên), theo đó các công dân nam của đế quốc La Mã có quyền bỏ phiếu bầu ra các quan chức và thông qua các đạo luật do nhà vua và nghị viện xây dựng.

Hình thức dân chủ trực tiếp thể hiện sự tham gia trực tiếp của người dân vào các chính sách và quản lý của Nhà nước, nhất là ở các cấp địa phương, thông qua các cuộc họp và các hình thức khác để nêu ý kiến với các cấp thẩm quyền của nhà nước. Những hình thức dân chủ trực tiếp phổ biến nhất gồm: nhân dân tham gia thành lập bộ máy nhà nước thông qua bầu cử và ứng cử; biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý kiến; tham gia quản lý nhà nước; bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; giám sát hoạt động của nhà nước, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước v.v.

Nhân dân tham gia thành lập bộ máy nhà nước thông qua bầu cử và ứng cử. Thông qua bầu cử và ứng cử, nhân dân tự lựa chọn người xứng đáng nhất để thay mặt mình giải quyết và quản lý công việc nhà nước và xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác việc nước, việc nhà… Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội; Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thực sự là Chính phủ của nhân dân”.

Nhân dân biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý kiến. Nhân dân bỏ phiếu thể hiện ý chí của mình đồng ý hay không đồng ý đối với một vấn đề chính trị, xã hội, pháp lý quan trọng của đất nước hay địa phương, hoặc việc xây dựng, thông qua hiến pháp mới hay hiến pháp sửa đổi. Các vấn đề được đem ra trưng cầu ý dân có thể được quy định cụ thể trong hiến pháp, hoặc do cơ quan lập pháp, thành viên cơ quan lập pháp, cử tri yêu cầu. Tùy theo quy định của hiến pháp hoặc pháp luật quốc gia, kết quả trưng cầu ý dân có thể có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý hoặc có giá trị tham khảo.  

Nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Nhân dân tham gia quản lý nhà nước bằng các phương thức như nhân dân tham gia thảo luận và góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật của nhà nước. Ví dụ: Soạn thảo Hiến pháp năm 1959. Ban soạn thảo Hiến pháp năm 1959 đã tổ chức hai đợt lấy ý kiến nhân dân với thời gian 4 tháng, 10 điểm đóng góp lớn được Ban sửa đổi Hiếp pháp tiếp thu, chỉnh sửa, ngoài ra những ý kiến đóng góp về những vấn dề chi tiết khác thuộc phạm vi lập pháp, liên quan đến hoạt động của các cơ quan nhà nước được chuyển đến các cơ quan phụ trách để nghiên cứu tiếp thu.

Nhân dân bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND. Nhân dân không những bầu ra những đại biểu của mình mà còn có quyền bãi miễn đại biểu đó khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Nhân dân giám sát hoạt động của nhà nước, cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước. Nhân dân giám sát để đảm bảo các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước thực hiện đúng quyền hạn do nhân dân ủy thác không lạm quyền, chuyên quyền, lộng quyền.

Việt Nam không có bề dày truyền thống về thực thi dân chủ nói chung, dân chủ trực tiếp nói riêng. Nguyên nhân chính là nền lập hiến – nền tảng cho các cơ chế dân chủ đại diện của Việt Nam còn non trẻ. Bên cạnh đó, chiến tranh khốc liệt kéo dài cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức, thực thi các hình thức dân chủ.

Về mặt pháp lý, bên cạnh việc khẳng định thiết chế dân chủ đại diện, các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 của Việt Nam quy định về hình thức dân chủ trực tiếp như sau:

- Hiến pháp năm 1946, Điều thứ 20: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra, theo Điều thứ 41 và 61”,  người có thể bị đề nghị bãi miễn theo quy định của Hiến pháp năm 1946 gồm: nghị sĩ, thành viên HĐND và UBHC các cấp. Trưng cầu ý dân được ghi nhận tại Điều thứ 32: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý. Cách thức phúc quyết sẽ do luật định”, quyền phúc quyết các vấn đề quan trọng với quốc gia do Nghị viện tổ chức; Điểm c, Điều thứ 70: “Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”, sau khi Nghị viện ưng chuẩn những thay đổi trong việc sửa đổi hiến pháp thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.

- Hiến pháp năm 1959, Điều 5: “Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ nếu tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp sẽ bị bãi miễn nếu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Ngoài ra, Điều 53 Hiến pháp năm 1959 quy định công dân có quyền bỏ phiếu trong các cuộc trưng cầu ý dân do UBTVQH tổ chức.

- Dân chủ trực tiếp trong Hiến pháp năm 1980 được quy định tại Điều 7: “Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”; Khoản 6 Điều 100 quy định công dân quyền bỏ phiếu trong các cuộc trưng cầu ý dân do Hội đồng nhà nước tổ chức. Ngoài ra, so với 2 bản hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1980 có quy định về quyền tham gia quản lý công việc của nhà nước và xã hội tại Điều 56: “Công dân có quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội”.

- Kế thừa các bản hiến pháp trước, về việc bãi miễn đại biểu dân cử Điều 7, Hiến pháp năm 1992: “Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Bên cạnh đó, công dân có quyền bỏ phiếu trong các cuộc trưng cầu ý dân do Quốc hội quyết định và tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước (Điều 53).

- Hiến pháp năm 2013 đã mở ra triển vọng cho thúc đẩy mở rộng dân chủ trực tiếp ở Việt Nam trong thời gian tới. Hiến pháp năm 2013 tái khẳng định về trưng cầu ý dân, bãi miễn đại biểu dân cử và quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội của người dân đã nêu trong Hiến pháp 1980, 1992, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định rõ ràng, cụ thể nhân dân có hai phương thức thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện (Điều 6). Đồng thời Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận quyền cho ý kiến về dự thảo hiến pháp của nhân dân[2] đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946, và quy định trách nhiệm của Nhà nước phải tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân[3].      

Qua các quy định về dân chủ trực tiếp trong 5 bản hiến pháp, trưng cầu ý dân và bãi miễn đại biểu dân cử được quy định trong tất cả các bản hiến pháp, về phần các quy định về tham gia của người dân quản lý Nhà nước, xã hội mới chỉ được đề cập từ Hiến pháp năm 1980. Đối với bãi miễn đại biểu dân cử, Hiến pháp năm 1946 quy định đối tượng bị bãi miễn bao gồm các nghị sĩ, thành viên HĐND và cả các quan chức hành chính (UBHC các cấp), các hiến pháp sau chỉ giới hạn đối tượng bãi miễn là Đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp. Đối với trưng cầu ý dân, Hiến pháp năm 1946 quy định rõ việc sửa đổi hiến pháp nhất thiết phải được đưa ra toàn dân phúc quyết, còn những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia thì nghị viện sẽ đưa ra phúc quyết nếu có ít nhất hai phần ba tổng số nghị viên tán thành, Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Ủy ban dự thảo phải tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội dự thảo hiến pháp. Còn các hiến pháp khác không quy định cụ thể những việc cần đưa ra để nhân dân biểu quyết, cũng như các quy định cụ thể những việc cần đưa ra để nhân dân biểu quyết, cũng như những quy trình, thủ tục trong vấn đề này.

Dân chủ trực tiếp cho phép người dân tự mình tham gia, quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước, vì vậy những quyết định quan trọng của chính quyền luôn phù hợp và phản ánh được ý chí của người dân. Bên cạnh đó, hình thức này mang tính phổ thông, đại chúng. Nhân dân có thể thể hiện ý kiến của mình không phân biệt tầng lớp, tuổi tác, công việc, giới tính, v.v. Nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí nguyện vọng của mình, còn nhà nước dễ dàng bao quát được mọi khía cạnh của đời sống thực tiễn, hiểu được tâm ý, nguyện vọng của nhân dân từ đó ban hành đường lối, chính sách, pháp luật phù hợp với cuộc sống.

Bên cạnh những ưu điểm, dân chủ trực tiếp có những hạn chế đó là không phải tất cả các vấn đề quan trọng nhất đều phải trực tiếp quyết định bởi người dân, phụ thuộc nhiều yếu tố như: số lượng dân cư đông, chi phí tổ chức cao, thông tin, tâm lý đám đông, trình độ dân trí, v.v.

Khi xã hội ngày càng phát triển với sự ra đời và phát triển của nhà nước, mức độ rộng lớn của không gian quản lý, dân cư ngày càng đông đúc, tính phức tạp, khẩn trương của công tác quản lý thì việc người dân trực tiếp bàn bạc, quản lý quyết định tất cả các vấn đề của xã hội không có đủ điều kiện để thực hiện, bởi vậy hình thức dân chủ gián tiếp ra đời, trở thành hình thức chủ yếu của nền dân chủ hiện đại.

Hình thức dân chủ đại diện là hình thức tham gia quản lý nhà nước thông qua các đại diện được bầu cử; thay mặt cho cử tri trong việc thực hiện các chức năng hoạch định chính sách, quản lý nhà nước và xã hội.

Dân chủ đại diện là hình thức phổ biến trên thế giới hiện nay, dân chủ đại diện là việc thực hiện quyền lực của nhân dân thông qua nhà nước, vì vậy luôn gắn với một chế độ nhà nước nhất định.

Ở Việt Nam, dân chủ đại diện với chế chế độ “dân ủy” đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946 và được tiếp tục được khẳng dịnh trong tất cả các bản Hiến pháp sau này. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Như vậy, hình thức dân chủ đại diện ở nước ta được thực hiện thông qua Quốc hội và HĐND các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn làm chủ thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp của nhân dân được lập nên theo nguyên tắc tự nguyện.            Vấn đề dân chủ đại diện, khoản 1 Điều 79 Hiến pháp năm 2013 đã quy định rất rõ: “Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước”. Người Đại biểu quốc hội khi thực hiện nhiệm vụ phải đại diện cho nhân dân cả nước, đặt lợi ích của toàn dân lên hàng đầu. Nhiệm vụ của Đại biểu quốc hội thực tế rất nặng nề. Làm thế nào để liên hệ được chặt chẽ với các cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri trong khi đó các điều kiện vật chất (nơi làm việc, kinh phí đi lại, công tác phí, kinh phí khảo sát đánh giá, thời gian, v.v.) đối với các Đại biểu còn rất hạn chế. Đại biểu Quốc hội nước ta phần lớn là kiêm nhiệm có ít thời gian cho công tác Đại biểu và chỉ hưởng một khoản “hoạt động phí” hàng tháng bằng 1,0 mức lương tối thiểu và những khoản hỗ trợ rất khiêm tốn khác. Trong khi đó, tại Mỹ mức lương trung bình của Nghị sĩ Thượng viện hoặc Hạ viện là khoản 174.000 đô la/1 năm. Mức thu nhập chưa tính thuế một tháng của một Nghị sĩ ở Đức là khoản 15.636 Euro/1 tháng.

Dân chủ đại diện giúp truyền đạt các ý nguyện của công dân thông qua các hình thức cơ quan dân cử, các đại biểu được người dân bầu chọn, qua đó cho phép sự điều tiết xã hội được quy về một mối, giúp nhà nước quản lý xã hội một cách đồng bộ, thống nhất, phản ứng kịp thời và có hiệu quả trước biến động của xã hội. Dân chủ đại diện cũng tồn tại hạn chế, người dân thực hiện quyền lực và quyền làm chủ của mình chủ yếu thông qua người đại diện hay dân chủ đại diện. Tiếng nói của người dân phải thông qua nhiều nấc trung gian như đại biểu HĐND các cấp, cán bộ lãnh đạo các tổ chức chính trị-xã hội… Do đó, hình thức dân chủ dại diện phụ thuộc rất nhiều vào trình độ nhận thức, phẩm chất, năng lực của người đại diện.

Trong thực tế, chúng ta thấy rằng mặc dù dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trái ngược nhau về nguyên lý, nhưng hai hình thức dân chủ này không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau. Cụ thể, trưng cầu ý dân là cách thức giúp các cơ quan và đại diện dân cử giải quyết những vấn đề chính trị, pháp lý phức tạp, gây tranh cãi, đồng thời tăng cường sự quan tâm của người dân với các vấn đề của đất nước, góp phần giải quyết tình trạng cử tri thờ ơ với các cuộc bầu cừ. Bên cạnh đó, bãi miễn có tác dụng như một biện pháp kỷ luật, giúp bảo đảm các vị đại biểu dân cử phải xem xét đầy đủ quan điểm của cử tri trước khi đưa ra quyết định.

Như vậy, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình thức của chế độ dân chủ, tuy khác nhau về hình thức, phương pháp tiến hành, nhưng có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, hỗ trợ, bổ sung cho nhau cùng phát triển. Dân chủ đại diện nhằm khắc phục nhược điểm của dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp tạo nên cơ chế kiểm tra giám sát đối với hình thức dân chủ đại diện, bộ máy Nhà nước, giảm sự tùy tiện, lộng quyền, phát huy tính tự giác, tích cực của mỗi thành viên trong một tập thể, cộng đồng./.

      


[1] Lời nói đầu của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 

[2] Khoản 3 Điều 120: “Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp”.

[3] Khoản 2 Điều 28: “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.


Các tin khác

Kết quả điểm

Tài liệu tuyên truyền

Hướng dẫn tra cứu thư viện số