An sinh xã hội ở Việt Nam sau 30 năm đổi mới

Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa trọng đại trong sự nghiệp phát triển, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Trong đó vấn đề An sinh xã hội là một trong những thành tựu quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước đem lại cho nhân dân.

 

An sinh xã hội có nội dung rất rộng và ngày càng hoàn thiện về nhận thức và thực tiễn thực hiện trên toàn thế giới. Hiện nay, nhiều tổ chức lớn trên thế giới đều đã đưa ra quan điểm khác nhau về an sinh xã hội, điển hình như Liên hợp quốc (Điều 25 Hiến chương Liên hiệp quốc năm 1948), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Lao động thế giới (ILO), Ngân hàng phát triển Á châu (ADB)…

Mặc dù còn có các quan điểm, định nghĩa và vai trò khác nhau về an sinh xã hội nhưng các quan điểm trên đều thống nhất hệ thống an sinh xã hội có các chức năng cơ bản sau đây:

- Bảo đảm thu nhập ở mức tối thiểu (chức năng cơ bản nhất của an sinh xã hội). An sinh xã hội có vai trò cung cấp thu nhập mức tối thiểu, bảo đảm quyền sống tối thiểu của con người, bao gồm các quyền về ăn, sức khỏe, giáo dục, nhà ở và một số dịch vụ xã hội cơ bản.

- Nâng cao năng lực quản lý rủi ro (nền tảng của an sinh xã hội). Trong đó, chức năng quản lý rủi ro hỗ trợ người dân chủ động ngăn ngừa rủi ro trong đời sống, sức khỏe, sản xuất kinh doanh và biến động của môi trường tự nhiên; giúp cho người dân có đủ nguồn lực để bù đắp những thiếu hụt về thu nhập do các biến cố trong đời sống, sức khỏe, sản xuất kinh doanh và môi trường tự nhiên và hỗ trợ kịp thời cho người dân trước các biến cố trong đời sống, sức khỏe, sản xuất kinh doanh, và môi trường tự nhiên và bảo đảm điều kiện sống tối thiểu của người dân.

- Phân phối thu nhập. An sinh xã hội thực hiện chức năng phân phối thu nhập thông qua các chính sách giảm nghèo, các hình thức trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất cho các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương và phương châm “người trẻ đóng - người già hưởng” trong bảo hiểm xã hội, hay “người khỏe đóng - người ốm hưởng” trong bảo hiểm y tế …

- Thúc đẩy việc làm bền vững và phát triển thị trường lao động. Hệ thống an sinh xã hội thông qua việc hỗ trợ: đào tạo nghề cho người lao động, phát triển thông tin thị trường lao động và dịch vụ việc làm; tạo việc làm trực tiếp; chuyển đổi việc làm cho lao động …  qua đó thúc đẩy việc làm bền vững, tăng cường kỹ năng và các cơ hội tham gia thị trường lao động cho người lao động

- Nâng cao hiệu quả quản lý xã hội, thúc đẩy gắn kết xã hội và phát triển xã hội. An sinh xã hội nâng cao nguồn vốn con người, tăng cường cơ hội và phát triển con người và tăng cường sự hòa nhập..., là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và tăng cường gắn kết xã hội. Một hệ thống an sinh xã hội được thiết kế hiệu quả có thể tạo điều kiện cho mỗi cá nhân được phát triển độc lập, chủ động và nhiều cơ hội đầu tư tốt hơn cho tương lai.

Ở Việt Nam, vấn đề an sinh xã hội được Đảng và Nhà nước thực hiện thực hiện ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công và tiếp tục được hoàn thiện, đặc biệt trong 30 năm đổi mới đất nước. Vấn đề an sinh xã hội đã được đề cập trong các văn kiện quan trọng của Đảng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định: “Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất...Có chính sách bảo trợ và điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành và các vùng”. Đặc biệt lần đầu  tiên, Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (được bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh cần phải: “Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội”.

Cụm từ “an sinh xã hội” được chính thức sử dụng trong văn kiện Đại hội IX của Đảng (4/2001): “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp”. Tiếp tục được đề cập trong Đại hội X, XI, XII của Đảng.

Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 nhấn mạnh: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi và không ngừng nâng cao mức sống đối với người có công. Mở rộng các hình thức cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khăn”.

Nghị Quyết số 15-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 1/6/2012 đặt ra yêu cầu “Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ ..”, đồng thời thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn.

Thực hiện nhất quán các chủ trương của Đảng về An sinh xã hội, sau 30 năm đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật như sau:

- Các chương trình An sinh xã hội theo nguyên tắc “đóng - hưởng” ngày càng phát triển, mở rộng phạm vi bao phủ, nâng cao dần mức độ tác động đến đời sống của người dân.

Đối với lĩnh vực bảo hiểm xã hội (BHXH) đã thể hiện rõ vai trò bảo đảm an toàn cho đời sống của nhân dân, vì sự phát triển hài hòa, bền vững. BHXH đã bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao động cũng như của toàn xã hội. Bên cạnh đó, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) kết hợp chế độ trợ cấp tạm thời với chế độ giải quyết việc làm cho người thất nghiệp. BHTN vừa bù đắp thu nhập, vừa tạo động lực tích cực cho người thất nghiệp chủ động tìm cơ hội trở lại làm việc.

- Các chương trợ giúp xã hội (TGXH) và chính sách thị trường lao động ngày càng được chú trọng, phạm vi đối tượng tham gia được mở rộng, nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước được nâng lên.

Trợ giúp xã hội với hai nhóm chính sách là trợ giúp xã hội thường xuyên (TGXHTX) và trợ giúp xã hội đột xuất (TGXHĐX) đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ thu nhập thường xuyên và đột xuất cho các đối tượng dễ bị tổn thương như người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, v.v.. Về trợ giúp đột xuất góp phần ổn định và cải thiện từng bước đời sống đối tượng. Đặc biệt, Nghị định 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng trợ giúp xã hội không chỉ giới hạn ở các hộ nghèo mà đã mở rộng tới các đối tượng tàn tật nặng không có khả năng lao động.

Ngoài ra, Nhà nước tạo điều kiện để hình thành rất nhiều loại quỹ xã hội, nhân đạo từ thiện như “Quỹ vì người nghèo”; “Quỹ tấm lòng vàng”, “Quỹ nạn nhân chất độc da cam”, “Quỹ bảo trợ trẻ em”, quỹ của Hội Chữ thập đỏ... để trợ giúp các đối tượng xã hội. Khi thiên tai xảy ra, ngoài sự trợ giúp của các địa phương và người dân tại địa bàn, Nhà nước có chính sách TGXHĐX (chiếm khoảng  0,5% - 0,6% GDP, hoặc 1,5% - 1,6% chi ngân sách nhà nước) để bảo đảm sự an toàn về đời sống và sản xuất của các thành viên trong xã hội.

- Chính sách ASXH được kết hợp chặt chẽ với các chính sách xã hội khác, nhờ đó ASXH được bảo đảm, kinh tế - xã hội đất nước khá ổn định, ngay cả trong bối cảnh khủng hoảng và lạm phát.

Hàng loạt chương trình mục tiêu quốc gia, các văn bản pháp luật liên quan đến xóa đói giảm nghèo được ban hành. Trong quá trình đổi mới và phát triển, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam liên tục giảm. Chỉ tính trong 15 năm (2000 - 2015) đã có 43 triệu người dân Việt Nam thoát khỏi nghèo đói, điều này không chỉ chứng tỏ Việt Nam là một hình mẫu trong xoá đói giảm nghèo mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam.

Cả nước hiện có gần 7.000 các công trình ghi công liệt sĩ, trong đó có 237 đài tưởng niệm liệt sĩ, 3.540 nhà bia ghi tên liệt sĩ và 3.077 nghĩa trang liệt sĩ với tổng số mộ có trong nghĩa trang là trên 780.522 ... Nhiều công trình ghi công liệt sĩ trở thành công trình lịch sử văn hoá, có sức thuyết phục lớn về mỹ thuật, đạo đức, giáo dục. Các phong trào tình nghĩa, xã hội hoá chăm sóc người có công với cách mạng ngày càng đẩy mạnh và mang lại hiệu quả thiết thực.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình thực hiện An sinh xã hội ở nước ta phải đối mặt nhiều thách thức, đó là: Việt Nam vẫn tụt hậu khá xa so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới về an sinh xã hội, trở thành một thách thức đối với phát triển bền vững và hội nhập; Hệ thống chính sách ASXH hiện còn phân tán , chưa có sự gắn kết, tính thống nhất chưa cao và độ bao phủ thấp. Nguồn tài chính để thực hiện ASXH chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước. Người dân vẫn chưa ý thức được nguyên tắc có đóng có hưởng trong hoạt động bảo hiểm; Hệ thống ASXH nói chung và TGXH nói riêng ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất cập và chưa đáp ứng được nhu cầu bảo đảm ASXH ngày càng mở rộng; Diện bao phủ của nhiều chính sách ASXH còn hẹp; Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về ASXH còn hạn chế; Ý thức của người dân chưa cao, còn trông chờ và ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước; Nguồn thu tài chính cho ASXH còn thấp nên việc thực hiện các mục tiêu ASXH gặp nhiều khó khăn.

Định hướng phát triển chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020:

- Đổi mới nhận thức về nghèo đói; nghèo đói được nhìn nhận đa chiều, dựa vào thu nhập và các điều kiện và môi trường sinh sống khác;

- Tập trung hỗ trợ bộ phận người nghèo có việc làm, tăng thu nhập, có khả năng vươn lên thoát nghèo, người mới thoát nghèo có nguy cơ tái nghèo, người dân tộc thiểu số; Tách đối tượng nghèo kinh niên sang hưởng các chính sách trợ giúp xã hội;

- Tập trung hỗ trợ toàn diện đối với trẻ em nghèo về giáo dục, dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, nước sinh hoạt hợp vệ sinh và vui chơi giải trí;

- Thực hiện mạnh mẽ cơ chế phân cấp trong xây dựng và thực hiện chương trình giảm nghèo; Ngân sách Nhà nước ưu tiên các địa phương có tỷ lệ nghèo cao; thực hiện lồng ghép các nguồn lực giảm nghèo trên địa bàn;

- Hoàn thiện việc theo dõi, giám sát và đánh giá các chương trình giảm nghèo; Ban hành bộ chỉ số theo dõi, giám sát nghèo đói một cách đơn giản, khả thi và hướng dẫn quy trình thu thập thông tin, xử lý thông tin; đảm bảo chia sẻ thông tin giữa các ngành và các cấp;

- Đảm bảo sự tham gia toàn diện của người dân trong quá trình thực hiện các chương trình giảm nghèo; Nâng cao năng lực giám sát của người dân vào quá trình xác định hộ nghèo, thực hiện các chính sách giảm nghèo;

- Xã hội hóa nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo: Tăng cường sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong việc thực hiện chương trình giảm nghèo;

- Nâng cao năng lực và điều kiện làm việc cho đội ngũ cán bộ cơ sở để đáp ứng được yêu cầu công việc.

Phát huy những thành quả đã đạt được, Việt Nam chủ trương phát triển hệ thống an sinh xã hội sẽ đáp ứng các yêu cầu: bảo đảm để người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội, bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu thập thấp, người khuyết tật, người nghèo…); bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân./.

            


Các tin khác