Tin mới nhất

Những điểm mới về chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước của Hiến Pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp 2013 được ban hành trong điều kiện Đảng và Nhân dân ta tiếp tục thực hiện công cuộc đổi, thực hiện CNH-HĐH đất nước, hoàn thiên Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp 2013 tiếp tục kế thừa những thành tựu của quá trình lập hiến trước đây, đồng thời sửa đổi, bổ sung những chế định mới đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước trong giai đoạn cách mạng mới. Trong nhiều điểm mới của Hiến pháp 2013, chế định về chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước thể hiện nhiều điểm mới so với Hiến pháp 1992.

Hiến pháp năm 2013 đã xác định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[1]. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 bên cạnh quy định về phân công, phối hợp đã bổ sung thêm việc kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự bổ sung này là cần thiết để khắc phục những yếu kém trong kiểm soát quyền lực nhà nước của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992.

Về các hình thức thực hiện quyền lực Nhân dân, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan Nhà nước khác”[2]. So với Hiến pháp năm 1992, quy định này của Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiến bộ rõ ràng của tư duy lập hiến Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 chỉ mới quy định các hình thức dân chủ đại diện, còn Hiến pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong Hiến pháp.

Về địa vị pháp lý của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài việc tiếp tục xác định vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung thêm quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”[3]. Đồng thời bên cạnh việc quy định “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 đã quy định bổ sung “các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[4]. Các quy định mới trên đây là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. Những quy định này xác định nghĩa vụ của các tổ chức của Đảng và các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về các quyết định của mình. Các quy định này là cơ sở pháp lý để Nhân dân giám sát các tổ chức của Đảng và các đảng viên hoạt động theo đúng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Trong chương Chế độ chính trị còn có quy định bổ sung mới về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đó là “vai trò phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [5]. Vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bổ sung quan trọng trong Hiến pháp năm 2013. Chế độ chính trị nhất nguyên  của các nước xã hội chủ nghĩa có ưu thế là sự thống nhất chính trị cao, sự ổn định của đường lối và quyết sách chính trị, tuy nhiên cũng có hạn chế là thiếu sự phân tích phản biện đúng mức nên đôi khi các quyết sách chưa được nhìn nhận, xem xét trên nhiều bình diện khác nhau một cách khách quan và đầy đủ. Việc bổ sung quy định trên đây về vai trò của Mặt trận là hoàn toàn phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay ở Việt Nam.

Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiếp nhận những hạt nhân hợp lý của học thuyết phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước khi xác lập vị trí, tính chất của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân  một cách rõ ràng. Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102); Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 107).

Về cách thức thực hiện quyền tư pháp Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mới so với Hiến pháp năm 1992. Ngoài những nguyên tắc tố tụng đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992, như nguyên tắc: tòa án xét xử công khai trừ trường hợp do luật định, nguyên tắc khi xét xử sơ thẩm có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Hiến pháp năm 2013 còn xác định thêm các nguyên tắc: “nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm”[6] và “chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được bảo đảm”[7] . Để bảo đảm tính độc lập của Tòa án, Hiến pháp năm 2013 không quy định Chánh án tòa án địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân như quy định của Hiến pháp năm 1992.

 Về chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn quyền hạn của Chủ tịch nước khi xác định Chủ tịch nước “quyết định phong, thăng, giáng tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam”[8] thay cho quy định quyết định phong hàm, cấp “sĩ quan cấp cao” trong các lực lượng vũ trang nhân dân như quy định trong Hiến pháp năm 1992. Trên thực tế theo Hiến pháp năm 1992, Chủ tịch nước chỉ quyết định phong sĩ quan cấp thượng tướng và đại tướng, còn thẩm quyền quyết định phong sĩ quan cấp thiếu tướng và trung tướng thuộc thẩm quyền của Thủ tướng.

Một điểm mới khác cần phải kể đến trong việc tổ chức quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 là tổ chức chính quyền địa phương. Trong Hiến pháp năm 1992, Chương IX có tên gọi là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân còn trong Hiến pháp năm 2013, Chương IX có tên gọi là: “Chính quyền địa phương”. Về cấp chính quyền địa phương,  ngoài ba cấp chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn, Hiến pháp 2013 còn quy định thêm đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Mặt khác, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa chính quyền địa phương, Hiến pháp 2013 quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”[9].

Về tổ chức thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 còn có điểm mới là đã có quy định về hai cơ quan hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử Trung ương và Kiểm toán nhà nước. Việc thành lập hai cơ quan hiến định này đảm bảo quyền lực nhà nước được kiểm soát chặt chẽ.

Những điểm mới về chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước của Hiến Pháp năm 2013 là nội dung cần cập, nhật, làm rõ trong giảng dạy các bài học thuộc các môn học có liên quan trong chương trình Trung cấp lý luận chính trị, như: Xây dựng Đảng, Nội dung cơ bản về Nhà nước và Pháp luật Việt Nam và Quản lý hành chính nhà nước...Trên cơ sở giáo trình Trung cấp lý luận chính trị, đối với từng bài học, giảng viên cần phân tích, so sánh, nhấn mạnh, làm nổi bật những điểm mới về chế độ chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước của Hiến Pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 để làm sâu sắc hơn nội dung bài học, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập. Để làm tốt việc này, cần nghiên cứu, nắm chắc những nội dung của Hiến pháp 1992 về chế định: chế độ chính trị, các chế định về tổ chức bộ máy nhà nước và những luật có liên quan về tổ chức bộ máy nhà nước như: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và các luật mới sửa đổi, bổ sung như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2020, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Tổ chức Chính phủ và luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019…/.    


1. Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp 2013

2. Điều 6, Hiến pháp 2013

3. Khoản 2, Điều 4, Hiến pháp 2013

4. Khoản 3, Điều 4, Hiến pháp 2013

5. Khoản 1, Điều 9, Hiến pháp 2013

6. Khoản 5, Điều 103, Hiến pháp 2013

7. Khoản 6, Điều 103, Hiến pháp 2013

8. Khoản 5, Điều 88, Hiến pháp 2013

9. Khoản 2, Điều 111, Hiến pháp 2013


Các tin khác

Kết quả điểm

Tài liệu tuyên truyền

Hướng dẫn tra cứu thư viện số